Công ước Luật Biển 1982 và sự tham gia tích cực của Việt Nam


 

Dương Thị Thùy Linh –Bộ môn Chủ nghĩa Mác-Lênin

0984274126-thuylinh176@gmail.com

1. Đặt vấn đề

Ngày 10/12/2022 là dịp kỷ niệm 40 năm các quốc gia đầu tiên đã ký kết UNCLOS. Tuy nhiên, UNCLOS phải bắt đầu có hiệu lực từ ngày 16/11/1994, sau khi đã được 60 quốc gia thành viên phê chuẩn. Đến nay, UNCLOS đã được gần như tất cả các thành viên của Liên hợp quốc (LHQ) phê chuẩn, ngoại trừ 15 thành viên chưa phê chuẩn. Bảy trong số 15 quốc gia từ chối này là các quốc gia không giáp biển, Hoa Kỳ, Iran và Bắc Triều Tiên cũng nằm trong số các quốc gia chưa phê chuẩn UNCLOS.

Trong 40 năm qua, UNCLOS đã trở thành nền tảng pháp lý quan trọng cho việc quản trị đại dương toàn cầu. Mặc dù UNCLOS không thể giải quyết được tất cả mọi bất đồng, nhưng các quy tắc và nguyên tắc của nó đã được sử dụng để giải quyết hoặc quản lý hàng chục tranh chấp biển trên thế giới. Ngay tại khu vực Đông Nam Á, một số quốc gia đã thay đổi luật pháp trong nước và điều chỉnh các yêu sách biển của mình để phù hợp với UNCLOS và nhờ đó có thể giải quyết các tranh chấp về biên giới biển cũng như các tranh chấp biển khác với các nước láng giềng. UNCLOS đã chứng tỏ giá trị của nó và các giá trị này cần phải được bảo vệ và tôn vinh.

.2. Một số nội dung cơ bản về Công ước Luật Biển 1982

2.1. Những vùng biển được quy định trong Công ước 1982

Theo Công ước, về nguyên tắc các quốc gia ven biển, kể cả các quốc gia quần đảo có 5 vùng biển như sau; (i) Nội thủy; (ii) Lãnh hải; (iii) Vùng tiếp giáp; (iv) Vùng đặc quyền kinh tế; (v) Thềm lục địa (kể cả thềm lục địa kéo dài). Tuy nhiên, việc quốc gia ven biển có đầy đủ 5 vùng biển trên hay không hoàn toàn phụ thuộc vào đặc điểm và cấu tạo địa lí của quốc gia ven biển. Việt Nam là một quốc gia ven biển và có đặc điểm địa lí phù hợp cho việc yêu sách cả 5 vùng biển nêu trên.

Xét về tính chất pháp lí, 5 vùng biển mà các quốc gia ven biển có quyền yêu sách theo Công ước có thể được chia thành 2 nhóm khác nhau:

a) Các vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển bao gồm: (i) Nội thủy (vùng biển nằm phía bên trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải) và (ii) Lãnh hải (vùng biển rộng 12 hải lí phía ngoài đường cơ sở). Các vùng biển này có quy chế pháp lí như lãnh thổ lục địa. Điều này có ý nghĩa là quốc gia ven biển có quyền thực thi chủ quyền của mình tại vùng biển này như đối với lãnh thổ đất liền (trừ quyền qua lại vô hại lãnh hải của tàu thuyền nước ngoài).

b) Các vùng biển mà quốc gia thực hiện quyền chủ quyền và quyền tài phán bao gồm: (i) Vùng tiếp giáp (vùng biển nằm ngoài và tiếp liền lãnh hải và rộng 24 hải lí tính từ đường cơ sở); (ii) Vùng đặc quyền kinh tế (vùng biển nằm phía ngoài và tiếp liền với lãnh hải, rộng 200 hải lí tính từ đường cơ sở) và (iii) Thềm lục địa (bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển phía bên ngoài của lãnh hải trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia ven biển cho đến bờ ngoài của rìa lục địa hoặc đến khoảng cách 200 hải lí tính từ đường cơ sở trong trường hợp ranh giới ngoài của thềm lục địa ít hơn 200 hải lí). Tại các vùng biển này, quốc gia ven biển được thực hiện một số quyền mang tính chất chủ quyền và chỉ có quyền tài phán trong một số lĩnh vực nhất định.

2.2 Đường cơ sở

Đường cơ sở là đường dùng để xác định chiều rộng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của quốc gia ven biển. Trong những điều kiện thông thường, các quốc gia ven biển có thể lấy ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển làm đường cơ sở. Trong một số điều kiện đặc biệt (như có sự hiện diện của 1 chuổi đảo ven bờ, bờ biển bị lồi lõm liên tục…), quốc gia ven biển có thể chọn một số điểm thích hợp làm điểm cơ sở và nối những điểm này thành đường cơ sở (đường cơ sở thẳng). Quốc gia ven biển cũng có thể kết hợp cả 2 phương pháp xác định đường cơ sở nêu trên.

2.3. Nội thủy

Nội thủy là toàn bộ vùng nước tiếp giáp với bờ biển và nằm phía trong đường cơ sở. Tại nội thủy, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối như đối với lãnh thổ đất liền của mình.

2.4. Lãnh hải

Lãnh hải của quốc gia ven biển là vùng biển tiếp liền và nằm phía ngoài đường cơ sở, thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển. Theo quy định tại Công ước 1982, các quốc gia ven biển có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải của mình tới một giới hạn không vượt quá 12 hải lí tính từ đường cơ sở.

Chủ quyền quốc gia ven biển đối với lãnh hải không phải tuyệt đối như đối với nội thủy, do Công ước 1982 thừa nhận quyền qua lại vô hại lãnh hải của tàu thuyền nước ngoài. Đây chính là sự thỏa hiệp giữa các quốc gia ven biển và các cường quốc hàng hải trong việc thừa nhận quốc gia ven biển có vùng lãnh hải rộng 12 hải lí (trước đây, thông thường lãnh hải của quốc gia ven biển chỉ rộng 3 hải lí).

Quyền qua lại vô hại của tàu thuyền nước ngoài, Công ước 1982 quy định:

- Tất cả các loại tàu thuyền (dân sự và quân sự) của tất cả các nước đều được hưởng quyền qua lại vô hại mà không có sự phân biệt đối xử.

- “Qua lại” tức là đi qua lãnh hải để vào nội thủy hoặc từ nội thủy đi ra qua lãnh hải hoặc đi qua lãnh hải mà không vào nội thủy. Đi qua là trạng thái di chuyển liên tục của tàu thuyền, không được phép dừng lại (trừ trường hợp bất khả kháng như gặp sự cố thông thường về hàng hải, mắc cạn hoặc vì mục đích cứu giúp người, phương tiện khác đang bị lâm nguy). Việc qua lại vô hại phải được tiến hành nhanh chóng và liên tục.

- “Qua lại vô hại” là không xâm phạm đến hòa bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven biển, tuyệt đối không được tiến hành một hoặc nhiều những hành động sau đây khi đi qua lãnh hải: (i) đe dọa hoặc dùng vũ lực chống lại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập chính trị của quốc gia ven biển; (ii) diễn tập quân sự; (iii) thu thập tin tức tình báo gây thiệt hại cho quốc phòng, an ninh của quốc gia ven biển; (iv) tuyên truyền nhằm làm hại đến quốc phòng, an ninh của quốc gia ven biển; (v) phóng đi, tiếp nhận, sắp xếp các phương tiện bay; (vi) cất lên, hạ xuống hoặc đưa lên tàu những phương tiện quân sự; (vii) bốc dỡ hàng hóa, đưa lên xuống tiền bạc hoặc người trái với luật lệ hải quan, thuế khóa, nhập cư, y tế của quốc gia ven biển; (viii) gây ô nhiễm biển; (ix) đánh bắt hải sản; (x) nghiên cứu, khảo sát biển; (xi) làm rối loạn hệ thống liên lạc hoặc công trình, thiết bị của quốc gia ven biển và (xii) các hoạt động khác không liên quan trực tiếp đến việc qua lại.

- Quốc gia ven biển có quyền ban hành các quy định để kiểm soát và giám sát tàu thuyền nước ngoài thực hiện việc qua lại lãnh hải của mình trong các vấn đề: (i) an toàn hàng hải, điều phối giao thông đường biển; (ii) bảo vệ các thiết bị, công trình, hệ thống đảm bảo hàng hải; bảo vệ tuyến dây cáp và ống dẫn ở biển; (iii) bảo tồn tài nguyên sinh vật biển; (iv) ngăn ngừa vi phạm pháp luật của quốc gia ven biển liên quan đến đánh bắt hải sản; bảo vệ môi trường biển; nghiên cứu khoa học biển và (v) ngăn ngừa các vi phạm về hải quan, thuế khóa, nhập cư, y tế.

2.5. Vùng đặc quyền kinh tế

Theo quy định của Công ước năm 1982, vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển là vùng biển nằm phía ngoài và tiếp liền với lãnh hải, có chiều rộng 200 hải lí tính từ đường cơ sở. Trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có:

a) Các quyền chủ quyền về việc thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lí các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió.

b) Quyền tài phán theo đúng những quy định của Công ước về việc: Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị, công trình; nghiên cứu khoa học biển; bảo vệ và giữ gìn môi trường biển.

c) Các quyền và nghĩa vụ khác do Công ước quy định.

Trong khi thực hiện các quyền nói trên, quốc gia ven biển có nghĩa vụ phải chú ý thích đáng đến quyền của các nước khác đã được luật pháp quốc tế thừa nhận.

Trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển, tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển, trong những điều kiện do các quy định thích hợp của Công ước, đều được hưởng 3 quyền tự do cơ bản sau đây:

- Quyền tự do hàng hải;

- Quyền tự do hàng không;

- Quyền tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm.

2.6. Thềm lục địa

Công ước 1982 quy định thềm lục địa của quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lí, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia này ở khoảng cách gần hơn.

Theo quy định của Công ước 1982, quốc gia ven biển có chủ quyền đối với việc thăm dò, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa của mình và quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa là đặc quyền. Có nghĩa là, quốc gia ven biển không thăm dò, khai thác thì cũng không ai có quyền khai thác tại đây nếu không được sự đồng ý của quốc gia ven biển. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không phụ thuộc vào việc chiếm hữu thật sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ tuyên bố rõ ràng nào. Điểm này hoàn toàn khác với quy chế pháp lí của vùng đặc quyền kinh tế ở chỗ đối với vùng đặc quyền kinh tế ngoài việc quốc gia ven biển phải tuyên bố về yêu sách của mình, trong trường hợp không khai thác hết các nguồn tài nguyên sinh vật với mức độ có thể chấp nhận được, quốc gia ven biển có thể cho các quốc gia khác như quốc gia không có biển, quốc gia bất lợi về mặt địa lí tiến hành khai thác phần tài nguyên sinh vật dư thừa trong vùng đặc quyền kinh tế của mình.

Cũng như đối với vùng đặc quyền kinh tế, các quốc gia khác cũng được hưởng các quyền tự do như tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa của quốc gia ven biển.

2.7. Thềm lục địa mở rộng

Trong trường hợp bờ ngoài của rìa thềm lục địa của quốc gia ven biển mở rộng quá khoảng cách 200 hải lí thì quốc gia ven biển có quyền yêu sách vùng thềm lục địa kéo dài thông qua việc đệ trình Ủy ban ranh giới thềm lục địa báo cáo quốc gia chứng minh phần thềm lục địa này là phần kéo dài tự nhiên của lục địa. Báo cáo cần tuân thủ các hướng dẫn về kỹ thuật, pháp lí của Ủy ban ranh giới thềm lục địa.

Trong trường hợp chứng minh được có sự trải dài tự nhiên của thềm lục địa vượt quá 200 hải lí tính từ đường cơ sở, quốc gia ven biển có quyền yêu sách thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lí. Tuy nhiên, khu vực thềm lục địa mở rộng không được vượt quá 350 hải lí tính từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lí tính từ đường đẳng sâu 2.500m (đường nối liền các điểm có chiều sâu 2500 m).

Theo quy định của Công ước và quyết định của Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước Luật biển lần thứ 11 (năm 2001), ngày 13/5/2009 là hạn để các quốc gia đệ trình Báo cáo xác định ranh giới thềm lục địa vượt quá 200 hải lí. Tính đến nay, đã có 51 báo cáo nộp cho Ủy ban ranh giới thềm lục địa. Việt Nam đã nộp 02 báo cáo (trong đó có Báo cáo chung với Ma-lai-xi-a về khu vực thềm lục địa phía Nam Biển Đông) và đã trình bày 02 báo cáo này tại khóa họp lần thứ 24 của Ủy ban ranh giới thềm lục địa ngày 27-28/8/2009.

2.8. Biển cả

Biển cả là vùng biển nằm ngoài các vùng biển thuộc phạm vi chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia ven biển. Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia có biển hoặc không có biển. Ở biển cả, các quốc gia đều có quyền tự do hàng hải, hàng không, đặt dây cáp và ống ngầm, đánh bắt cá, nghiên cứu khoa học… Tuy nhiên, các quốc gia khi hoạt động ở biển cả cần tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác cũng như cần tuân thủ các quy định có liên quan của Công ước như: Bảo vệ môi trường biển, bảo tồn tài nguyên sinh vật biển, an toàn hàng hải, hợp tác trấn áp cướp biển…

2.9. Quy chế đảo

Đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc xung quanh và phải luôn nổi trên mặt nước. Các đảo được quyền có các vùng biển như đối với đất liền. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 121 của Công ước 1982, “đá” không thích hợp cho con người sinh sống hoặc không có đời sống kinh tế riêng thì không được quyền có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

 

3. Việt Nam tích cực tham gia Công ước Luật Biển của Liên hợp quốc

Công ước Luật Biển của Liên hợp quốc (UNCLOS) đã được ký kết năm 1982, hơn 40 năm qua, UNCLOS đã cho thấy vai trò quan trọng trong việc quản lý biển và đại dương trên toàn cầu. UNCLOS đã có nhiều thành tựu lớn lao, nhưng cũng có những thách thức đối với vai trò và sự phát triển của bản “Hiến pháp của Biển và Đại dương” này. Là một quốc gia ven biển có đường bờ biển dài trên 3000 km với hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam có nhiều lợi ích gắn liền với biển. Nhận thức rõ tầm quan trọng của biển, Việt Nam là một trong các quốc gia đã tham gia ký kết UNCLOS rất sớm, đồng thời Việt Nam cũng có rất nhiều hoạt động tích cực ủng hộ, vận dụng và phát triển UNCLOS trong suốt thời gian qua

Năm 1977, Việt Nam đã ban hành “Tuyên bố của Chính phủ về các vùng biển Việt Nam”[14], trong đó xác lập vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý, không chỉ giới hạn trong quyền đánh cá mà còn có các quyền chủ quyền và quyền tài phán khác. Tuyên bố này được đưa ra khi UNCLOS đang được xây dựng và chưa được ký kết, phản ánh xu thế được đa số các nước ủng hộ tại Hội nghị Luật biển lần thứ 3, thể hiện sự đóng góp của Việt Nam vào quá trình pháp điển hóa luật biển quốc tế.

Việt Nam cũng là một trong 107 quốc gia tham gia ký Công ước tại Montego Bay, Jamaica ngay sau khi văn kiện này được mở ký và là một trong những quốc gia phê chuẩn sớm, trước khi Công ước có hiệu lực. Điều này thể hiện thiện chí, sự coi trọng và kỳ vọng của Việt Nam vào một trật tự pháp lý mới về biển và đại dương.

Ngày 23/6/1994, Quốc hội Việt Nam đã ra Nghị quyết về việc phê chuẩn UNCLOS[15], trong đó khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với nội thủy, lãnh hải, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam trên cơ sở các quy định của Công ước và các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, yêu cầu các nước tôn trọng các quyền nêu trên của Việt Nam.

Đồng thời, Nghị quyết còn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chủ trương giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng khác liên quan đến vấn đề Biển Đông thông qua thương lượng hòa bình, trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là UNCLOS.

Ngoài ra, Việt Nam cũng đã ban hành Luật Biển Việt Nam năm 2012 nhằm thống nhất quản lý việc hoạch định, sử dụng, thăm dò, khai thác tài nguyên biển và quản lý các vùng biển, thềm lục địa, hải đảo của Việt Nam, cũng như việc giải quyết tranh chấp trên biển giữa Việt Nam và các nước láng giềng[16]. Đây được coi là bước tiến quan trọng trong việc chuyển hóa các quy định của UNCLOS vào hệ thống pháp luật trong nước, tạo thuận lợi cho việc quản lý thống nhất về biển và phát triển kinh tế biển Việt Nam. Cùng với việc ban hành Luật Biển, Quốc hội Việt Nam cũng đã thông qua Bộ luật Hàng hải năm 2015, có hiệu lực từ ngày 01/7/2017, điều chỉnh các hoạt động giao thông hàng hải trên biển, chế độ ra vào các cảng biển Việt Nam[17].

Với chủ trương nhất quán thông qua các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp, bất đồng trên biển, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc áp dụng có hiệu quả UNCLOS để giải quyết các tranh chấp về phân định biển với các nước láng giềng, trong đó luôn đề cao nguyên tắc công bằng để tìm ra giải pháp hợp lý, cụ thể là: Việt Nam đã ký với Thái Lan Hiệp định về phân định biển ngày 09/8/1997; ký với Trung Quốc Hiệp định và phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ ngày 25/12/2000; ký với Indonesia Hiệp định về phân định thềm lục địa ngày 26/6/2003[18].

Thực tiễn đàm phán, ký kết các văn kiện nêu trên đã thể hiện sự vận dụng sáng tạo các quy định của UNCLOS, đóng góp và làm phong phú thêm luật pháp quốc tế về phân định biển. Trên cơ sở các quy định của UNCLOS, Việt Nam đang thúc đẩy đàm phán phân định và hợp tác cùng phát triển tại khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc; đàm phán phân định vùng đặc quyền kinh tế với Indonesia và đàm phán về các vấn đề trên biển với các nước láng giềng khác.

Mặc khác, Việt Nam luôn tích cực đấu tranh bảo vệ luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS. Theo đó, khi bàn về vấn đề tranh chấp Biển Đông, Việt Nam luôn kiên trì yêu cầu “tôn trọng pháp luật quốc tế, Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982”, coi đây như một nguyên tắc để giải quyết và xử lý các tranh chấp liên quan đến biển đảo. Việt Nam đã nỗ lực đưa nguyên tắc này vào các văn kiện của ASEAN, kể cả “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC); “Tuyên bố 6 điểm ngày 20/7/2012 của ASEAN về Biển Đông”; dự thảo Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), trong đàm phán Việt Nam và các nước thống nhất nguyên tắc COC phải sử dụng UNCLOS làm cơ sở.

Việt Nam còn tích cực tham gia các hoạt động trong khuôn khổ các cơ chế quốc tế được thành lập theo Công ước. Việt Nam đã từng được bầu làm Phó Chủ tịch Đại hội đồng và thành viên Hội đồng của Cơ quan Duyền lực quốc tế về đáy Đại Dương[19]. Việt Nam tham gia đầy đủ Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước được tổ chức hàng năm tại Đại hội đồng LHQ và luôn có những đóng góp tích cực vào việc thúc đẩy thực thi hiệu quả UNCLOS; tham gia và có những đóng góp tích cực vào các hội nghị của Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy Đại Dương; ủng hộ tăng cường hoạt động của Ủy ban Ranh giới thềm lục địa (CLCS) và nâng cao vai trò của Tòa án Luật Biển quốc tế (ITLOS); đồng thời đóng góp đầy đủ kinh phí để các cơ quan nói trên có thể hoạt động hiệu quả.

Đây chính là những bằng chứng sinh động thể hiện thiện chí, sự tích cực, quyết tâm và cam kết thực tế của Chính phủ Việt Nam đối với việc tôn trọng và thực thi các quy định của UNCLOS, đồng thời thể hiện nỗ lực và chủ trương nhất quán của Việt Nam trong việc hợp tác giải quyết các tranh chấp, bất đồng trên biển bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS, nhằm thúc đẩy hợp tác với các quốc gia, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của Việt Nam ở Biển Đông.

Trong bối cảnh phức tạp hiện nay ở Biển Đông, việc tôn trọng và tuân thủ đầy đủ UNCLOS càng có vai trò quan trọng trong duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải ở khu vực. Điều quan trọng là tất các quốc gia cần tôn trọng nguyên tắc thượng tôn pháp luật trên các vùng biển và đại dương, tôn trọng các tiến trình ngoại giao và pháp lý cũng như các tiến trình đàm phán đang diễn ra, tránh có những động thái nhằm làm xói mòn, hạ thấp vai trò của UNCLOS. Mọi yêu sách về biển của các nước cần dựa trên các quy định của UNCLOS, không áp đặt các yêu sách thái quá, không phù hợp với quy định của Công ước này. Khi có bất đồng hoặc khác biệt liên quan đến giải thích và thực thi Công ước, các bên liên quan cần thương lượng, giải quyết bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế trong đó có UNCLOS.

Pháp luật biển quốc tế là một lĩnh vực phức tạp, ngoài UNCLOS, còn có các quy tắc của pháp luật biển quốc tế thông thường (nhiều quy tắc trong số đó về bản chất phản ánh các quy tắc được nêu trong UNCLOS). Pháp luật biển cũng bao gồm một loạt các điều ước đa phương, khu vực và song phương quan trọng khác, cũng như các án lệ, về các vấn đề như vận tải biển, đánh bắt cá, bảo vệ môi trường và phân định biển. Các khía cạnh khác của pháp luật pháp quốc tế nói chung, chẳng hạn như những vấn đề liên quan đến quyền tài phán, luật hình sự quốc tế, nhân quyền và việc sử dụng vũ lực, áp dụng đối với các hoạt động trên biển. UNCLOS có thể được coi là một trong những công ước quan trọng và thành công nhất của luật pháp quốc tế hiện đại. Trong nhiều khía cạnh, nó đóng vai trò như một khuôn khổ, thiết lập các quy tắc cơ bản mà không nhất thiết ảnh hưởng đến các giải pháp đạt được đối với các vấn đề cụ thể./.

 

Tài liệu tham khảo


[1] Alan Beesley, “The Negotiating Strategy of UNCLOS III: Developing and Developed countries as Partners–a Pattern for Future Multilateral international conferences?”, Law and Contemporary Problems, vol. 46, No.2 (spring 1983), p. 183-194 (185).

[2] [14] https://canhsatbien.vn/portal/pho-bien-giao-duc-phap-luat/ tuyen-bo-cua-chinh-phu-nuoc-chxhcn-viet-nam-ve-lanh-hai-vung-tiep-giap-vung-dac-quyen-kinh-te-va-them-luc-dia-cua-vn-ngay-12-5-1977.

[3] https://moit.gov.vn/van-ban-phap-luat/van-ban-phap-quy/nghi-quyet-ve-viec-phe-chuan-cong-uoc-cua-lien-hop-quoc-ve-l.html.

[4] https://chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&docid=163056.

[5] Nguyễn Mạnh Đông, Giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ của Việt Nam: Kết quả và bài học kinh nghiệm, Tạp chí Cộng sản, truy cập tại: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/821647/giai-quyet-cac-van-de-bien-gioi,-lanh-tho-cua-viet-nam--ket-qua-va-bai-hoc-kinh-nghiem.aspx.

[6] https://dangcongsan.vn/thoi-su/viet-nam-trung-cu-vao-uy-ban-phap-ly-va-ky-thuat-co-quan-quyen-luc-quoc-te-day-dai-duong-619479.html.

Tin mới hơn

Tin cũ hơn