Thực hiện quan điểm của Đảng về quyền con người ở Việt Nam hiện nay

 

                                                           Nguyễn Thị Nga

MỞ ĐẦU

Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử, là giá trị chung mà nhân loại phấn đấu và hướng tới, được cộng đồng quốc tế, các quốc gia thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ bằng hệ thống pháp luật. Ngày nay, quyền con người được xem là thước đo quan trọng để đánh giá sự tiến bộ và trình độ văn minh của các quốc gia, khu vực.

Ở Việt Nam, quyền con người luôn được khẳng định. Trải qua các thời kỳ cách mạng, nhất là trong quá trình chống giặc ngoại xâm, quyền con người được đề cao hơn bao giờ hết. Làm sao để người dân thoát ra khỏi thân phận người nô lệ, được làm chủ bản thân mình, làm chủ đất nước. Và cao cả hơn nữa, quyền con người cũng chính là quyền lợi của quốc gia, dân tộc Việt Nam.

Kế thừa tinh thần đó, trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước; thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng trong phát triển bền vững, đảm bảo thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quan điểm đó được hình thành, đúc rút từ lịch sử, truyền thống văn hóa dân tộc, nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, thực tiễn và những yêu cầu đặt ra trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực và thành tựu đạt được trong việc xây dựng, thực thi, đảm bảo quyền con người ở Việt Nam, các thế lực thù địch vẫn luôn tìm cách xuyên tạc, phủ nhận, bịa đặt, công kích Đảng, Nhà nước Việt Nam “vi phạm các quyền con người, quyền công dân”. Vì vậy, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nhận thức rõ quan điểm của Đảng về quyền con người, đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết.

Xuất phát từ những lý do trên, học viên lựa chọn vấn đề “Thực hiện quan điểm của Đảng về quyền con người ở Việt Nam hiện nay” làm bài thu hoạch hết môn Lý luận và pháp luật về quyền con người của mình.

 

 NỘI DUNG

1. Quyền con người và quan điểm của Đảng về quyền con người.

*Khái niệm về quyền con người

Quyền con người là một phạm trù với nhiều quan niệm và cách tiếp cận khác nhau. Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người đưa ra khái niệm: Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu nhằm bảo vệ các cá nhân và nhóm người chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, tự do cơ bản của con người. Ở Việt Nam, quyền con người được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Mỗi quan điểm có những khía cạnh khác nhau, tựu trung lại, quyền con người có một số đặc trưng chung như:

Một là, quyền con người là các quyền bẩm sinh thuộc sở hữu vốn có của mọi người, nó gắn liền với hành động công nhận, thừa nhận chứ không phải là ban phát, từ chối hay tước đoạt vô cớ.

Hai là, trung tâm của khái niệm quyền con người là khái niệm về phẩm giá vốn có của mọi thành viên trong gia đình nhân loại.

Ba là, quyền con người là các quyền đưực áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi người mà không có sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, quan điểm, nguồn gốc dân tộc hoặc địa vị xã hội...

Bốn là, quyền con người là các quyền được bảo đảm minh bạch về pháp lý nhằm giúp cá nhân, các nhóm xã hội đạt được nhu cầu, lợi ích một cách độc lập trên các lĩnh vực.

Năm là, quyền con người xác lập nghĩa vụ tôn trọng, bảo đảm của nhà nước và xã hội.

Vì vậy, có thể hiểu chung nhất: Quyền con người là các đặc quyền tự nhiên, bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của tất cả mọi người, được cộng đồng quốc tế và quốc gia thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế.

 *Một số quan điểm của Đảng về quyền con người.

Ngay từ khi ra đời, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên (năm 1930), Đảng đã xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[1]. Theo đó, nhiệm vụ của Đảng là tập hợp lực lượng toàn dân, tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Vấn đề quyền con người được thể hiện ở việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam và đề ra các khẩu hiệu đấu tranh cụ thể như “Việt Nam tự do”, đấu tranh và xây dựng một xã hội tự do tổ chức; nam nữ bình quyền, phổ cập giáo dục,… Tuy không phải là quốc gia đầu tiên đề ra các quyền cơ bản của con người nhưng Việt Nam là một trong những nước sớm tiếp cận vấn đề này. Nghị quyết của Quốc dân Đại hội Tân Trào (tháng 8-1945) xác định: “Ban bố những quyền của dân cho dân: Nhân quyền; Tài quyền (quyền sở hữu); Dân quyền: quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền”[2]. Nếu Bản Tuyên ngôn nhân quyền thế giới mà Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10-12-1948 đề cao tự do, công lý, hòa bình thì trong Bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam trước đó 3 năm, ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”[3]. Trong những năm kháng chiến, Đảng ta đã gắn sự nghiệp giành độc lập dân tộc với việc mang lại quyền làm người cho nhân dân. Khi đất nước hòa bình, thống nhất, Việt Nam luôn tích cực, chủ động tham gia hệ thống pháp luật quốc tế về quyền con người; ký kết các công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa; Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ... Tại Đại hội VI, Đảng khẳng định quan điểm xuyên suốt “bảo đảm quyền dân chủ thật sự của nhân dân lao động, đồng thời kiên quyết trừng trị những kẻ vi phạm quyền làm chủ của nhân dân”[4]. Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh “thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013... tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân”[5]. Đến Đại hội XIII, Đảng khẳng định “tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm công dân đối với xã hội”[6].Quan điểm, chính sách, việc làm nhất quán của Việt Nam về bảo đảm, bảo vệ, hiện thực hóa quyền con người được thể hiện: 

Thứ nhất, Đảng và Nhà nước luôn coi trọng xây dựng, thực thi pháp luật, chính sách về quyền con người. Bảo đảm quyền con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, được ghi trong Cương lĩnh, Nghị quyết, Hiến pháp và được tôn trọng, bảo vệ. Trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về quyền con người, Đảng, Nhà nước luôn lấy “nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”[7]. Qua nhiều lần xây dựng, sửa đổi Hiến pháp nhưng luôn giữ nguyên tắc căn bản nhất là hiến định các quyền cơ bản và bảo đảm lợi ích hợp pháp của con người, đó là “ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Khoản 1, Điều 14, Hiến pháp năm 2013). Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 còn bổ sung và hoàn thiện quy định các quyền mới phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, thể hiện vai trò làm chủ của người dân, như: quyền được giữ bí mật thông tin; quyền tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương; quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân; quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và danh dự; quyền được sở hữu về thu nhập hợp pháp, về nhà ở; quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm; quyền được hưởng thụ các giá trị văn hóa, được sống trong môi trường trong lành... Qua đó tạo hành lang pháp lý đồng bộ để thực thi pháp luật về bảo đảm quyền con người ở Việt Nam.

Thứ hai, tích cực xây dựng và củng cố các thiết chế bảo đảm và thực thi quyền con người. Trong những năm qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong đổi mới, kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và các thiết chế bảo đảm quyền con người. Bộ máy nhà nước đã được tổ chức, sắp xếp lại theo hướng gọn nhẹ, chuyên môn hóa, hoạt động hiệu quả theo cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm hạn chế sự lạm dụng, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Chú trọng xây dựng các cơ quan chuyên môn, chuyên trách bảo vệ quyền con người như Ban chỉ đạo nhân quyền của Chính phủ và các địa phương; xây dựng, hoàn thiện tổ chức của các cơ quan chuẩn bị báo cáo tình hình thực hiện các Công ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, chúng ta đang nghiên cứu và xúc tiến việc thành lập Ủy ban nhân quyền quốc gia để theo dõi, giám sát, tư vấn việc thực thi quyền con người trên các lĩnh vực từ ban hành, thực thi pháp luật đến điều tra, truy tố, xét xử, xem xét về tính tương thích của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về quyền con người.

Thứ ba, tăng cường giáo dục, tuyên truyền, huy động sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội vào quá trình bảo vệ, thúc đẩy quyền con người. Thông qua các dự án, chương trình hợp tác, hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ban, ngành, cơ quan ngoại giao, tư pháp, công an, báo chí, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp đã tuyên truyền, giáo dục sâu rộng về quyền con người, trực tiếp góp phần nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, thực thi pháp luật và nhân dân. Trong bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, Việt Nam coi trọng phát huy vai trò của hệ thống chính trị, “Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị, xã hội, hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư. Thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên”[8]. Các hoạt động giáo dục, tuyên truyền luôn hướng tới tăng cường sự đồng thuận trong xã hội, thúc đẩy bình đẳng giới, trợ giúp pháp lý cho các nhóm xã hội yếu thế, dễ bị tổn thương, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, giải quyết khiếu nại, tố cáo, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở...

Thứ tư, đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế về bảo vệ và thực thi quyền con người. Là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Việt Nam chủ động tham gia ký kết và phê chuẩn hầu hết các công ước quốc tế, nghị định thư, đối thoại quốc tế liên quan đến quyền con người. Việt Nam là thành viên Hội đồng nhân quyền của Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016, có nhiều đóng góp tích cực vào việc thành lập và hoạt động của Ủy ban Liên chính phủ ASEAN về nhân quyền, Ủy ban Thúc đẩy quyền của phụ nữ và trẻ em trong ASEAN... Việt Nam nghiêm túc, nỗ lực thực thi trách nhiệm, nghĩa vụ, các cam kết quốc tế trong hiện thực hóa các chuẩn mực quốc tế về quyền con người trong hệ thống pháp luật, chính sách và hoạt động thực tiễn; xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, chính sách trong nước phù hợp và tuân thủ các quy định của Công ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên; sẵn sàng đối thoại và kiên quyết đấu tranh bảo vệ quyền con người.

2. Thực tiễn quá trình thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng

Sau nhiều nỗ lực, Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực trong việc bảo đảm quyền con người, từ quyền về dân sự, chính trị đến quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội và quyền của các nhóm dễ bị tổn thương. Quốc hội Việt Nam đã sửa đổi và ban hành mới nhiều văn bản luật, trong đó có những bộ luật liên quan đến đảm bảo quyền con người, như: Luật Báo chí; Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo; Luật Tiếp cận thông tin; Luật An ninh mạng… Bằng việc tham gia đóng góp ý kiến vào quá trình xây dựng luật pháp, nhân dân đã thực hiện các quyền tự do, dân chủ của mình; và các văn bản pháp luật quan trọng đều thể hiện được ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân.

Quyền làm chủ của người dân Việt Nam được thể hiện rõ ở: quyền bầu cử và ứng cử; quyền tự do ngôn luận, báo chí; quyền tự do tôn giáo… Nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân và thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Nhà nước ta đã thành lập Ủy ban quốc gia, đẩy nhanh tiến độ xây dựng “Chính phủ điện tử”; Cổng thông tin điện tử của các cơ quan Nhà nước, nhằm cung cấp dịch vụ công trực tuyến để cán bộ, cơ quan, tổ chức đối thoại trực tiếp với nhân dân, nâng cao hiệu quả tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp.

Cùng với đó, trong những năm qua Nhà nước Việt Nam đã thực hiện thắng lợi nhiều chương trình phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người trong các lĩnh vực này. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2016-2019 đạt khá cao, bình quân 6,8%/năm. Năm 2020, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh, nhưng tăng trưởng cả năm vẫn đạt 2,91%; là một trong những quốc gia tăng trưởng cao nhất trong khu vực và trên thế giới.

Một trong những thành tựu nổi bật nhất của Việt Nam bảo đảm quyền con người là đạt được những tiến bộ vượt bậc về xóa đói giảm nghèo, phát triển con người và chất lượng cuộc sống. Tính đến cuối năm 2020 tỷ lệ hộ nghèo còn 2,75% (theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020). Việt Nam là quốc gia đạt được kết quả ấn tượng trong việc thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ về giảm nghèo, được cộng đồng quốc tế ghi nhận.

Lĩnh vực giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho người dân ngày càng được nâng cao. Đến nay 63 tỉnh, thành phố đạt phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi và phổ cập giáo dục tiểu học. Ngoài sự phát triển các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe trực tiếp, Việt Nam còn thi hành nhiều biện pháp nhằm nâng cao sức khỏe của người dân, ngăn ngừa bệnh tật từ xa như chương trình cung cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn. Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nước sạch tăng lên qua các năm. Bảo hiểm y tế được phát triển, mở rộng. Số lượng người tham gia bảo hiểm y tế đã tăng từ 3,8 triệu (chiếm 5,4% dân số) năm 1993 lên gần 88 triệu người (gần 91% dân số) năm 2020.

Trên lĩnh vực văn hóa, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được đẩy mạnh; Chính phủ đã ban hành Nghị định mới về công nhận các danh hiệu văn hóa; Việt Nam có nhiều di sản được UNESCO công nhận là di sản văn hóa của nhân loại...

Nói đến thành tựu bảo đảm quyền con người không thể không nói tới những nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong chăm sóc, bảo đảm quyền của nhóm xã hội dễ bị tổn thương, bao gồm phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật. Trong đó, trẻ em ngày càng được chăm sóc và bảo vệ tốt hơn để phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần; Tỷ lệ nữ giới được giáo dục ở mọi cấp tăng cao. Các chính sách đổi mới của Việt Nam đã tạo cơ hội cho phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động kinh tế-xã hội của đất nước. Lao động nữ được quan tâm nhiều hơn trong thời kỳ thai sản và tuổi nghỉ hưu. Người khuyết tật được quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để được học văn hóa, được ưu tiên bố trí việc làm...

Mục tiêu “không ai bị bỏ lại phía sau” là xuyên suốt, nhất quán, được Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị thực hiện triệt để, hiệu quả ngay từ khi đại dịch COVID-19 xuất hiện. Hơn thế, Đảng, Nhà nước ta luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, “lấy người dân là trung tâm phục vụ, là chủ thể phòng, chống dịch”, “chiến thắng dịch bệnh là chiến thắng của nhân dân”. Không chỉ trong thiên tai, thảm họa, dịch bệnh mà bất luận trong hoàn cảnh nào, người dân luôn được cấp ủy, chính quyền và các lực lượng chức năng bảo vệ, bảo đảm cả về tính mạng, tài sản và điều kiện sống…

Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực và thành tựu đạt được trong việc xây dựng và thực thi quyền con người của Nhà nước Việt Nam, các thế lực thù địch vẫn luôn tìm cách xuyên tạc, phủ nhận, bịa đặt, công kích Đảng, Nhà nước Việt Nam “vi phạm các quyền con người, quyền công dân”. Ngày 21-1-2021, Nghị viện Châu Âu (EP) thông qua nghị quyết về tình hình nhân quyền Việt Nam, tiếp tục lặp lại chỉ trích Bộ luật Hình sự, Luật An ninh mạng và Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, vì họ cho rằng, những luật này đang giới hạn các quyền tự do căn bản của con người. Trên một số diễn đàn quốc tế đa phương và song phương, một số tổ chức, chính phủ thể hiện thái độ thiếu thiện chí, cố tình hiểu sai khi cho rằng nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước Việt Nam hiện nay không còn phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết, đòi Việt Nam thay đổi cách tiếp cận theo quan điểm nhân quyền của họ. Báo cáo nhân quyền thường niên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ những năm gần đây đã nêu các bước tiến của Việt Nam trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người, song báo cáo vẫn còn một số nội dung thiếu khách quan dựa trên những thông tin không được kiểm chứng liên quan đến vấn đề xây dựng và thực thi pháp luật về QCN tại Việt Nam...

Những thành tựu tổ chức thực thi pháp luật bảo đảm về quyền con người mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đạt được trong công cuộc đổi mới được Liên hợp quốc và nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận, đánh giá cao; là bằng chứng thuyết phục, không thể phủ nhận cho những nỗ lực của Việt Nam trong việc xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật về quyền con người, bảo đảm quyền con người, đồng thời đanh thép bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch về vấn đề trên. Nỗ lực đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc trong nhiều thập niên của Việt Nam không nằm ngoài mục đích bảo đảm cho mọi người dân Việt Nam được thụ hưởng đầy đủ nhất quyền con người, trong đó có quyền được sống trong hòa bình, độc lập, tự do và quyền được quyết định vận mệnh, con đường phát triển của mình.

3. Phương hướng tiếp tục thực hiện quan điểm của Đảng nhằm bảo đảm và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam hiện nay

Nhằm tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các quan điểm, giải pháp về quyền con người, ngăn chặn những nguy cơ tác động đến việc thực hiện nhân quyền ở nước ta, trong thời gian tới cần thực hiện tốt các định hướng sau: 

Một là, tiếp tục đổi mới toàn diện và phát huy mạnh mẽ những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn và thúc đẩy quyền con người trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt giảm nghèo bền vững và bảo đảm quyền của những nhóm dễ bị tổn thương. Cần tiếp tục thực hiện Chiến lược phát triển bền vững giai đoạn 2011 - 2020 nhằm phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với phát triển bao trùm, đặc biệt gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đặc biệt là hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người theo Hiến pháp năm 2013; đưa các quy định pháp lý về quyền con người vào cuộc sống một cách hiệu quả, phù hợp điều kiện kinh tế, văn hóa - xã hội của Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Ba là, tiếp tục mở rộng phạm vi, đa dạng hóa hình thức, nội dung và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục quyền con người, nhất là thông tin, tuyên truyền đối ngoại về những thành tựu bảo đảm quyền con người của Việt Nam, được cộng đồng quốc tế thừa nhận.

Bốn là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người nhằm thúc đẩy việc thực hiện các chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền con người gắn với nâng cao hiệu quả tiến trình hội nhập quốc tế. Trong quá trình đó, cần tăng cường đối thoại để nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau, từng bước thu hẹp bất đồng và những hiểu biết khác nhau giữa Việt Nam với các đối tác quốc tế trong vấn đề thực hiện dân chủ, bảo đảm quyền con người; đồng thời kiên quyết bảo vệ quan điểm, lập trường, lợi ích quốc gia, dân tộc của Việt Nam và đấu tranh ngăn chặn một cách hiệu quả các hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, quyền con người để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.

Năm là, vận dụng nhiều hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục kiến thức về quyền con người. Đối với hoạt động tuyên truyền, giáo dục nội dung quyền con người, cần sử dụng, khai thác và vận dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp khác nhau bảo đảm tính phù hợp, hiệu quả; đảm bảo nội dung tuyên truyền phù hợp với đối tượng và mục tiêu; Kết hợp giữa tuyên truyền, giáo dục quyền con người với các kỹ năng sống, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, hòa giải cơ sở, giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật. Khuyến khích tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về quyền con người, quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền con người cũng là một hình thức hấp dẫn, có thể đạt hiệu quả cao. Ưu điểm của biện pháp này là có thể được áp dụng một cách đa dạng cho nhiều đối tượng khác nhau (không chỉ riêng với nhóm học sinh/sinh viên tham gia các cuộc thi trong khuôn khổ của cơ sở đào tạo mà kể cả các đối tượng như người đi làm, người nghỉ hưu… cũng hoàn toàn tham gia được ở phạm vi rộng); phạm vi đối tượng được giáo dục cũng rất rộng (bao gồm cả người dự thi và người theo dõi cuộc thi), phát huy được tính tích cực, chủ động của đối tượng dự thi và giúp họ nhận thức sâu sắc hơn nội dung quyền con người cần tìm hiểu.

 

KẾT LUẬN

Để thực hiện những mục tiêu cũng như các nghĩa vụ quốc tế về quyền con người của Việt Nam, với quan điểm không để ai bị bỏ lại phía sau, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã dành sự quan tâm đặc biệt đến việc thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết của mọi tầng lớp nhân dân về vấn đề quyền con người để hỗ trợ người dân có thể hiểu và thụ hưởng một cách đầy đủ nhất các quyền của mình, trong đó tuyên truyền, giáo dục pháp luật về quyền con người được xem là một trong những biện pháp hiệu quả và quan trọng. Như vậy có thể khẳng định rằng, những kết quả, thành tựu to lớn trên lĩnh vực thúc đẩy, bảo vệ, bảo đảm quyền con người mà Việt Nam đã đạt được trong suốt những năm qua là minh chứng sinh động về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam là đúng đắn, là vì quyền con người. Điều này tiếp tục được Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”[9]. Thông qua bài viết này, em xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô trong Viện Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã trang bị và bổ sung thêm cho em những kiến thức lý luận, thực tiễn chuyên sâu về Lý luận và pháp luật về quyền con người nhằm giúp em nâng cao năng lực nghiên cứu lý luận, phân tích thực tiễn, vận dụng vào công tác phục vụ, nhiệm vụ chính trị được Trung tâm giao cho bản thân mình.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987.
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016
  4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 1, t. 2.
  5. Hồ Chí Minh, Toàn tập: Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 1.
  6. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi bổ sung năm 2013, Nxb Lao động, HN, 2013.
  7. Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên): Giáo trình Lý luận và Pháp luật về quyền con người, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2011
  8. TS. Trần Thị Hồng Hạnh: Lý luận về quyền con người - Bài giảng tại lớp Hoàn chỉnh CCLLCT K72.C06, tháng 3/2022.
  9. TS. Đỗ Thị Thơm: Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người - Bài giảng tại lớp Hoàn chỉnh CCLLCT K72.C06, tháng 3/2022.

10.  TS. Nguyễn Thanh Sơn: Pháp luật về quyền con người - Bài giảng tại lớp Hoàn chỉnh CCLLCT K72.C06, tháng 3/2022. 

 

 

 

 

 


[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập: Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 1.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr. 560

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 1

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 117

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 169

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 1,  tr. 71

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIISđd, tr. 27 - 28

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIISđd, tr. 172

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tr.28.

Tin mới hơn

Tin cũ hơn