Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định với hệ tư tưởng đã lựa chọn, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội

 

TÓM TẮT

Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay không chỉ dựa trên điều kiện tiềm năng, cơ sở vật chất dồi dạo, một nguồn nhân lực đông đảo mà còn phải được đảm bảo bằng một thế giới quan và phương pháp luận khoa học làm định hướng cho các hoạt động thực tiễn. Cơ sở lý luận thế giới quan và phương pháp luận của sự nghiệp đổi mới mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn là lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Bài viết này nêu lên bản chất khoa học và cách mạng, giá trị thời đại của chủ nghĩa Mác - Lênin, phản bác các quan điểm sai trái, khẳng định tính tất yếu kiên định với hệ tư tưởng mà Đảng đã lựa chọn.

Từ khóa: Đảng Cộng sản Việt Nam, hệ tư tưởng, chủ nghĩa Mác - Lênin.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Tấn công vào hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản là thủ đoạn tinh vi, thâm độc của các thế lực thù địch chống cộng nhằm tạo ra khoảng trống ý thức hệ trong cán bộ, đảng viên, để từ đó đẩy mạnh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng và trong xã hội, hòng làm tan rã các Đảng Cộng sản. Thủ đoạn này không mới, mà đã xuất hiện từ ngay khi chủ nghĩa Mác ra đời và thực tế là chưa bao giờ các thế lực chống cộng ngưng nghỉ việc công kích nó. Sự công kích này càng gia tăng khi hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lâm vào sụp đổ cuối thế kỷ XX. Nhân đà khích lệ bởi hiện thực sinh động này, họ chớp thời cơ và hoan hỉ tuyên bố về “sự cáo chung của chủ nghĩa cộng sản” và “sự kết thúc của chủ nghĩa Mác” trong thế giới ngày nay. Chính vì lẽ đó, nhận diện sự thật, vạch trần những luận điệu sai trái, khẳng định sự kiên định của Đảng đối với Chủ nghĩa Mác - Lênin là việc làm vừa lâu dài, vừa cấp thiết trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.

1.      Từ cuộc cách mạng về nhận thức trên toàn thế giới

Chủ nghĩa Mác - Lênin chính là kết quả đỉnh cao của tư duy khoa học, kế thừa, chọn lọc và phát triển sáng tạo những thành tựu tư tưởng, khoa học của nhân loại. Sự phát triển khoa học và thực tiễn xã hội hiện đại đã chứng tỏ rằng, bản chất khoa học cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin được thể hiện sinh động trong cả ba bộ phận cấu thành và trong đời sống hiện thực.

Thứ nhất là Triết học Mác - Lênin đã kết tinh những tinh hoa trí tuệ nhân loại, bao quát, tác động, chi phối cả thế giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy con người trong suốt tiến trình lịch sử phát triển của xã hội. Nó đã, đang và sẽ tiếp tục là thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho hoạt động của loài người tiến bộ.

Thứ hai là Kinh tế chính trị học Mác - Lênin đã tổng hợp những thành tựu kinh tế chính trị học của loài người, chỉ ra mục đích bản chất của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư và lợi nhuận tối đa, đồng thời chỉ rõ quy luật vận động khách quan của chủ nghĩa tư bản tất yếu đưa nhân loại đến chủ nghĩa xã hội.

Thứ ba là chủ nghĩa xã hội khoa học là thành tựu cao nhất của trí tuệ và thực tiễn xã hội - lịch sử nhân loại. Nó không chỉ là mục tiêu lý tưởng, không chỉ là xu hướng tất yếu của thời đại mà còn là động lực thực sự thúc đẩy giai cấp công và các Đảng Cộng sản cùng những người lao động trên toàn thế giới đi tới hành động để biến nó thành hiện thực.

Bằng những luận thuyết tiêu biểu về phép biện chứng duy vật, chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết giá trị thặng dư, học thuyết đấu tranh giai cấp và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, học thuyết hình thái - kinh tế xã hội... chủ nghĩa Mác - Lênin đã tạo ra cuộc cách mạng về mặt nhận thức trên phạm vi toàn thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra cách giải thích khoa học về nguồn gốc, động lực phát triển của xã hội loài người; không dừng lại ở việc chỉ “vén bức màn” bí mật mà công khai vạch trần bản chất bóc lột của chế độ tư bản chủ nghĩa; đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa duy tâm, mở đường cho khoa học phát triển, tạo tiền đề giải phóng con người, giải phóng xã hội khỏi sự thống trị của chủ nghĩa duy tâm, của thần quyền và những tư tưởng, định kiến bảo thủ, lỗi thời, lạc hậu vốn dĩ đã tồn tại cố hữu hàng thế kỷ trước đó. Những giá trị khoa học vĩ đại đó “đã cung cấp cho loài người và nhất là giai cấp công nhân những công cụ nhận thức vĩ đại” [1] để cải tạo thế giới. Học thuyết Mác - Lênin vì là khoa học và cách mạng triệt để nên nó giải quyết tất cả những trăn trở, những yêu cầu tiến bộ của nhân loại cần lao, dù ở phương Đông hay phương Tây như chính nó đã trường tồn và tỏa sáng.

Lịch sử đã cho thấy, ngay từ khi mới chỉ là “bóng ma” ở châu Âu, chủ nghĩa cộng sản khoa học đã được thực nghiệm bằng những cuộc cách mạng vô sản nổ ra và thành công, dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực và đã tồn tại với tư cách là một hệ thống cùng tất cả tính ưu việt và sức sống mãnh liệt của nó trong thực tiễn cách mạng thế giới. Nó là linh hồn của các phong trào tiến bộ, giúp các dân tộc đập tan chủ nghĩa Phát xít, giải phóng khỏi chủ nghĩa thực dân cũ và mới, giành độc lập dân tộc, dân quyền và tự do cho toàn thể nhân loại. Kể từ đó đến nay, dù tiếp tục có những học thuyết mới, với những cách luận giải mới, dưới nhiều màu sắc, quan điểm, lập trường khác nhau; song chỉ có học thuyết Mác - Lênin là khoa học và cách mạng, vì mục tiêu giải phóng và phát triển con người. Không chỉ vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin còn là biểu tượng vĩnh hằng cho một học thuyết chính trị - xã hội có tính cách mạng và triệt để nhất. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin đã thực sự giải đáp được những vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đã và đang đặt ra nhưng trước đó chưa học thuyết nào giải quyết được. Sự khác biệt lớn nhất so với các học thuyết trước đó ở chỗ, học thuyết Mác - Lênin là học thuyết duy nhất đề cập mục tiêu, con đường, lực lượng, cách thức, phương pháp đấu tranh xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công một cách đúng đắn nhất; thực hiện giải phóng giai cấp, giải phóng con người, giải phóng dân tộc và nhân loại. Cũng chỉ có học thuyết Mác - Lênin mới phát hiện và lý giải đúng đắn vai trò của quần chúng nhân dân đối với sự phát triển của lịch sử, phát hiện và xác lập đúng đắn vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm xóa bỏ chế độ xã hội áp bức, bất công. Và họ chính là những người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản.

Ngay từ khi mới ra đời, chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định được giá trị to lớn, trở thành kẻ thù đáng sợ nhất, nỗi ám ảnh thường xuyên nhất về mặt tư tưởng, lý luận của chủ nghĩa tư bản. Lý luận đó nếu được truyền bá và trở thành hiện thực thì những đặc quyền, đặc lợi của giai cấp tư sản và các nước tư bản chủ nghĩa đương nhiên sẽ bị lung lay. Chính vì vậy, kẻ thù luôn tìm cách chống phá điên cuồng, chúng dùng mọi thủ đoạn hòng từng bước làm phai nhạt niềm tin của nhân dân lao động và lực lượng tiến bộ, hòa bình trên thế giới, tiến tới hạ bệ và cuối cùng là phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Họ tấn công trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, từ những vấn đề cơ sở của sự ra đời, từ quá trình vận động, phát triển đến việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin trong thực tiễn của các Đảng cộng sản, các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Họ xuyên tạc thân thế, sự nghiệp của C. Mác, Ph. Ăngghen, Lênin; công kích toàn bộ nội dung, các bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin; lợi dụng triệt để việc hiểu chưa đúng đủ, vận dụng sai lý luận Mác - Lênin trong thực tiễn của các Đảng Cộng sản… để phủ nhận giá trị hiện thực lớn lao mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã tạo ra cho nhân loại. Họ vin vào việc mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ để hô hoán lên rằng “chủ nghĩa Mác đã thất bại!”. Và hôm nay, chính họ lại tự phơi bày lối hiểu phiến diện và phản khoa học về chủ nghĩa Mác, khi chủ nghĩa tư bản đang vùng vẫy trong vũng lầy khủng hoảng (như theo dự báo trước đó của C. Mác) và khỏa lấp đi sự tráo trở đó nhân đà thăng trầm của chủ nghĩa xã hội vào cuối thế kỷ XX. Tuy nhiên, những thủ đoạn, luận điệu đó không thể làm thức tỉnh lương tri của nhân loại vẫn đang rất tỉnh táo và sáng suốt khi nhận định rằng “chủ nghĩa Mác vẫn giữ nguyên ý nghĩa và tầm quan trọng của nó trong thế giới đương đại” [2].

Thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm “rung chuyển thế giới”, là minh chứng hùng hồn khẳng định giá trị hiện thực của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thực tiễn. Bằng sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác vào thực tiễn cách mạng Nga, V.I.Lênin và Đảng Cộng sản Liên Xô đã cho thế giới biết đến một chế độ xã hội mới, đưa giai cấp vô sản bị áp bức, bóc lột nặng nề thành giai cấp đứng đầu và làm chủ xã hội; giải phóng nhân dân lao động, đưa người lao động từ thân phận nô lệ trở thành chủ nhân của đất nước; ra đời nhà nước xã hội chủ nghĩa - nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trong lịch sử loài người và làm cho chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực trong đời sống chính trị thế giới. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản và chính quyền Xô viết non trẻ đã đánh bại cuộc tấn công của 14 nước đế quốc, bảo vệ thành công nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Sau đó, tiếp tục đánh bại chủ nghĩa phát xít, giải phóng một phần rộng lớn các nước Đông Âu, đưa chủ nghĩa xã hội từ một nước, trở thành một hệ thống, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, đấu tranh giải phóng vì hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin còn thể hiện ở chỗ, đây là học thuyết mở, không cứng nhắc, bất biến mà đòi hỏi luôn được bổ sung đổi mới, phát triển trong dòng phát triển trí tuệ của nhân loại. Trong thời đại ngày nay, thế giới đã, đang và sẽ có những biến đổi to lớn và nhanh chóng. Điều này đặt ra những vấn đề cấp thiết thúc đẩy hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin phải vượt lên để giải đáp, đồng thời phải tạo ra những tiền đề và điều kiện để thực hiện vai trò và chức năng của mình là không những nhận thức, giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới.

2.      Đến sự lựa chọn tất yếu và kiên định với hệ tư tưởng đã lựa chọn

Chúng ta đều biết rằng, sau sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu vào những năm 90 của thế kỷ XX, các thế lực thù địch đã lợi dụng sự kiện này, coi đó như một hiện thực vô cùng mới mẻ và sinh động để xuyên tạc bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ lý sự cho rằng: “Sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa theo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin là một sai lầm của lịch sử”, “Chủ nghĩa Mác - Lênin xuất phát từ một ảo giác nên không có giá trị chỉ đạo thực tiễn”, thất bại của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu chính là “sự cáo chung” của chủ nghĩa Mác - Lênin trên thực tế... Từ đây, lợi dụng ưu thế lan truyền nhanh và khó kiểm soát của các trang mạng xã hội, các thế lực thù địch đã đưa ra nhiều bài viết với mọi lý lẽ mị dân xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng, kêu gọi Đảng từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, vin vào nguyên cớ cho rằng: “Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã tan rã, chủ nghĩa Mác - Lênin đã sụp đổ, mà Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn lấy chủ nghĩa này làm nền tảng tư tưởng là sai lầm”.  Họ lớn tiếng kêu gọi Đảng Cộng sản Việt Nam hãy “thoát ra khỏi cái vòng kim cô ý thức hệ” để chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; bởi theo họ, chỉ như vậy đất nước mới có thể phát triển, dân tộc mới tồn vong được. Trước những luận điệu xuyên tạc, bóp méo hòng băng hoại giá trị của học thuyết cách mạng, đã có không ít người, kể cả một số cán bộ, đảng viên đã ngộ nhận tin vào những điều nói trên, dẫn đến dao động về tư tưởng, cuốn theo những luận điệu sai trái của các thế lực chống cộng, ảnh hưởng tới niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và hệ tư tưởng mà Đảng đã lựa chọn.

Sự thật là, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu cuối thế kỷ XX không bắt nguồn từ bản thân học thuyết Mác - Lênin mà xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó xét ở góc độ nội tại là từ sự sai lầm của các đảng tự xưng là “cộng sản” nhưng đi ngược lại các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp của sự sụp đổ bắt nguồn từ chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại trong đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức của đảng cầm quyền, cùng sự phản bội của một số người lãnh đạo cao nhất đối với những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Vốn dĩ, học thuyết Mác - Lênin là học thuyết mở, đòi hỏi các Đảng cộng sản và những người mácxít phải liên tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển, hoàn thiện và vận dụng một cách sáng tạo tùy vào điều kiện thực tiễn. Do vậy, đây chính là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội cụ thể - mô hình kiểu Xôviết chứ không đồng nghĩa với sự cáo chung của học thuyết Mác. Chính sự sụp đổ của mô hình kiểu Xôviết này cũng chứng minh rằng: Đảng nào rời xa những nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin thì đảng đó không còn là đảng Macxit - Leninnit chân chính, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ không tránh khỏi sự thất bại. A. Dinoviep - người tự nhận không phải là môn đệ của chủ nghĩa Mác - Lênin, từng chống đối nhà nước Xôviết cũng vẫn đánh giá cao giá trị của chủ nghĩa cộng sản và cho rằng: “Những thành tựu của thời đại chủ nghĩa cộng sản Xôviết do V.I. Lênin mở đầu đã thấm vào máu thịt của loài người. Nhờ có cuộc cách mạng vô sản và tất cả những gì gắn liền với cuộc cách mạng đó mà nhân loại đã được cứu thoát khỏi sự thụt lùi đáng sợ nhất, thoát khỏi sự suy tàn, thoái hóa” [3].

Từ góc độ một quốc gia đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam, chúng ta phải nhận thức rõ về sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu không phải là tất yếu, nhưng chúng ta cần nhận diện rõ hơn về những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội Xôviết và bài học về giữ vững và bảo vệ chính quyền cách mạng, nhất là bài học về sự kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và mục tiêu xã hội chủ nghĩa chúng ta đang hướng tới. Sự kiên định đó không phải là bảo thủ hay áp dụng máy móc giáo điều mà là sự vận dụng và phát triển những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin cho phù họp với điều kiện thực tiễn của mỗi dân tộc, trong từng thời kỳ lịch sử.

Điểm lại lịch sử cách mạng của dân tộc ta từ trước khi có Đảng, con đường giải phòng dân tộc sau nhiều cuộc đấu tranh với các khuynh hướng cứu nước khác nhau đã rơi vào bế tắc về đường lối và hệ tư tưởng cứu nước. Rất nhiều các phong trào đấu tranh nổ ra rộng khắp cả nước và được đông đảo tầng lớp nhân dân tham gia với tinh thần yêu nước bất khuất nhưng không đem lại thành công. Chỉ đến khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tiếp cận với Chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền bá tư tưởng đó vào Việt Nam, thành lập tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam mới tạo ra được bước ngoặt to lớn, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước, đưa cách mạng Việt Nam tiến lên và mở ra một trang mới cho sự phát triển của lịch sử dân tộc. Bằng sự trải nghiệm thực tiễn phong trào cách mạng thế giới và sự tiếp cận với hệ thống lý luận sắc bén, Người đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” [4] và “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [5].

Hơn 90 năm qua, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn của đất nước, với những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam đã giành được trong cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945-1975), trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc đã khẳng định sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của Đảng, tính đúng đắn, cách mạng, khoa học, triệt để và sự trường tồn bất diệt của chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cách mạng mới, khẳng định tính tất yếu và sự kiên định trong quá trình lựa chọn con đường, bước đi quá độ lên chủ nghĩa xã hội. “Nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [6]. Thành tựu sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” [7], vị thế quốc tế của Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước được nâng cao. Các đảng, các nước (kể cả các nước từng có quan hệ thù địch trước đây với Việt Nam như Hoa Kỳ, Anh, Pháp…) đều không phân biệt hệ thống chính trị, khuynh hướng chính trị, nhận thức rõ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tôn trọng thể chế chính trị của Việt Nam và mong muốn củng cố, mở rộng quan hệ với Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta cũng có lúc mắc phải sai lầm, khuyết điểm, nhưng phải khẳng định rằng, những sai lầm. khuyết điểm đó xuất phát từ việc Đảng nhận thức và vận dụng chưa đúng với tinh thần và bản chất khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin chứ hoàn toàn không phải do bản thân học thuyết đó vốn có sai lầm. Tại Đại hội VI, Đại hội khởi xướng cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã công khai thừa nhận những sai lầm và được khẳng định tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011): “Trong lãnh đạo, Đảng có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm, có những sai lầm , khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều chủ quan, duy ý chí vi phạm quy luật khách quan” [8]. Chính vì vậy, không thể vin vào những vấp váp, sai lầm trong công tác lãnh đạo của Đảng để bác bỏ vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với cách mạng Việt Nam.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tận dụng xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, những thành tựu từ các cuộc cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Tư, chủ nghĩa tư bản đã tiến hành điều chỉnh, thích nghi về quan hệ sản xuất trước sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất, hình thành tầng lớp trung gian (hay còn gọi là giai cấp trung sản) chiếm 40-50% dân số, có địa vị nghề nghiệp khá tốt, không còn là giai cấp vô sản theo quan niệm truyền thống nữa. Nhờ sự điều chỉnh này của chủ nghĩa tư bản về quan hệ sản xuất nên đã phần nào xoa dịu được tính gay gắt của những mâu thuẫn vốn có trong lòng chủ nghĩa tư bản trước cuộc đấu tranh bền bỉ của giai cấp công nhân mọi thời đại. Mặt khác, chính sự điều chỉnh này trên thực tế đã làm cho chủ nghĩa tư bản tiếp tục có những điều kiện để phát triển. Từ đây, nhiều học giả đã cố chứng minh rằng: chủ nghĩa từ bản ngày nay với những thành tựu đáng kể của nó đã bước sang giai đoạn “xã hội hậu công nghiệp”, “xã hội siêu công nghiệp” và là xã hội tốt đẹp nhất của loài người, không còn như chủ nghĩa tư bản trước đây. Một số học giả khác lại có xu hướng không những không phủ nhận mà ngược lại ca ngợi chủ nghĩa Mác - Lênin, tuy nhiên, cách lập luận của họ rõ ràng có ý đồ không trong sáng khi cho rằng: chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ đúng ở thời kỳ mà Mác và Lênin sống, còn hiện tại đã không còn phù hợp. Thực chất là chúng muốn phủ nhận lý luận hình thái kinh tế - xã hội mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra. Một số học giả khác lại ẫu trí cho rằng: chủ nghĩa tư bản có thể “hội tụ” với chủ nghĩa xã hội trong thời đại văn minh đại công nghiệp, văn minh trí tuệ, tin học. Mưu đồ đằng sau sự lập luận vô căn cứ khoa học là nhằm phủ nhân luận điểm của C. Mác về quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội. Mọi sự biện hộ cho sự tồn tại vĩnh hằng của chủ nghĩa tư bản và phủ nhận sự ra đời, phát triển của chủ nghĩa xã hội đều không có cơ sở lý luận và thực tiễn. Với tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội ra đời sau để thay thế chủ nghĩa tư bản theo quy luật tiến hóa của nhân loại, xã hội xã hội chủ nghĩa ra đời sẽ là quá trình biện chứng của lịch sử, là quy luật tự nhiên của đời sống xã hội.

Ở một khía cạnh khác khi nói về quan hệ giai cấp, một số học giả tư sản lại cố tình xuyên tạc và lập luận bằng nhiều lý lẽ, khẳng định rằng, C.Mác đã gắn cho giai cấp công nhân cái sứ mệnh mà nó không có chỉ bởi vì ông thương cảm, đó là giai cấp nghèo khổ; rằng, hiện nay địa vị của giai cấp công nhân đã có sự thay đổi căn bản, một bộ phận công nhân không còn bị bóc lột như trước nữa, đã trở nên “trung lưu hóa”, thậm chí trở thành “nhà tư bản”, cho nên không còn sứ mệnh lịch sử đó nữa. Dùng sự nghèo khổ làm cơ sở để luận giải cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là luận điệu hết sức xuyên tạc và thiếu căn cứ. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được quy định bởi địa vị kinh tế - xã hội của chính nó chứ không phải vì là “giai cấp nghèo khổ” nên họ có sứ mệnh lịch sử. Vì vậy, “hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra” [9].

Những biến đổi nhanh chóng của của thế giới hiện nay vẫn chưa thể vượt ra khỏi những quy luật mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã khái quát trước đó. Chủ nghĩa tư bản đương đại, mặc dù có nhiều sự thay đổi và điều chỉnh mang tính tích cực để thích nghi về quan hệ sản xuất nhưng bản chất bóc lột vẫn còn hiện hữu. Trong bối cảnh khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản hiện đại không chỉ nhân loại tiến bộ mà cả các chính trị gia, học giả tư sản đã bày tỏ sự lung lay về niềm tin đối với nền tảng lý luận tư sản và nhận rõ hơn bao giờ hết giá trị khoa học vượt thời đại của chủ nghĩa Mác - Lênin, thậm chí một số học giả tư sản đã kêu gọi nhân loại “trở về với Mác” vì cho rằng “sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác là bất diệt”. Bằng chứng là năm 1999, Trường Đại học Cambridge (Anh) công bố bình chọn nhà tư tưởng số một thiên niên kỷ thứ hai, kết quả là C. Mác đứng đầu, A. Anhxtanh đứng thứ hai[1]. Đặc biệt cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra từ cuối năm 2007 khởi phát từ nước Mỹ mà đến nay rất nhiều nước tư bản vẫn còn lao đao chưa thể thoát ra đã phản ảnh sự bất lực của hệ thống tư bản trong việc giải quyết vấn đề công bằng xã hội khi mà biểu ngữ “99% người nghèo chống lại 1% người giàu” được hiện diện tại phong trào “Chiếm phố Wall”. Trước sự bế tắc của chủ nghĩa tư bản như vậy, giới phương Tây lại tìm đọc Mác, đọc Tư bản luận như một sự tái phát hiện Mác và như một sự khẳng định vị trí của học thuyết đó trong sự phát triển của xã hội loài người. Đến năm 2011, trường đại học tổng hợp Yale - Mỹ đã lựa chọn xuất bản cuốn sách Tại sao Mác đúng? của giáo sư Terry Eagleton (Đại học tổng hợp Lancaste - Vương quốc Anh). Tác gải cuốn sách đã lựa chọn 10 vấn đề nổi cộm nhất mà người đương thời phê phán Mác để phân tích, luận giải, đưa ra minh chứng phản bác lại định kiến cho rằng “chủ nghĩa Mác đã chết và không cần phải nhắc đến nữa”, đồng thời đi đến khẳng định tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác. Thậm chí, có những tờ báo nổi tiếng như tờ Financial Times còn cho rằng tác giả cuốn sách xứng đáng là ứng viên giải Nobel kinh tế vì đã “làm sống lại Mác” và khẳng định rằng: “cách tiếp cận của Mác là cách xem xét tốt nhất đối với chủ nghĩa tư bản”[2].

Những thực tế nêu trên chính là minh chứng thuyết phục để bác bỏ những quan điểm sai trái cho rằng chủ nghĩa Mác đã lạc hậu, không còn giá trị; đồng thời củng cố những nhận định thức thời của một số học giả tư sản về thể ky XXI vẫn là thế kỷ của chủ nghĩa Mác. Thực tiễn đang chứng minh rằng, không có bất cứ “sự cáo chung” nào mà ngược lại, các nước trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin đi theo con đường chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại và tiếp tục phát triển ở nhiều nơi. Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba đã và đang có sự phát triển nổi bật trở thành tấm gương lôi cuốn các nước như Venezuela, Chile... định hướng sự phát triển của đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Bất chấp sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch và những thăng trầm đổi thay của lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn và ngày càng khẳng định sức sống mạnh liệt, sự lan tỏa sâu rộng và ý nghĩa vượt tầm thời đại.

Trước những thủ đoạn thường trực của các thế lực thù địch hòng phá hoại lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta cần phải chú trọng đưa ra những giải pháp để thường xuyên tăng cường, củng cố lòng tin vào nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo động lực lớn để đất nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội: Thứ nhất, phải quán triệt việc đẩy mạnh nghiên cứu, học tập và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin để luận giải những luận điểm nào còn giữ nguyên giá trị, những luận điểm nào cần hiểu cho đúng, nhưng luận điểm nào cần phát triển cho phù hợp với bối cảnh mới. Thứ hai, cần nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, bồi dưỡng lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho người học, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt, các lớp tạo nguồn, các nhà trường một cách sâu rộng, thực chất, kiên trì, bền bỉ và nghiêm túc. Thứ ba, cần phải hiện thực hóa lý tưởng của chủ nghĩa xã hội trong đời sống hiện thực trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… nhằm đảm bảo cho nước ta “kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị - xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối thống nhất” [10]. Thứ tư, kiên trì và kiên quyết đấu tranh vạch trần những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho mọi tầng lớp nhân dân nhận diện đầy đủ, đúng đắn về các quan điểm sai trái, nâng cao khả năng tự miễn dịch trước những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc bản chất, vai trò ý nghĩa, giá trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam.

Việt Nam đã trải qua hơn 30 năm đổi mới đầy thử thách và sáng tạo. Chưa bao giờ đất nước có cơ đồ tươi sáng như ngày nay, một đất nước dồi dào tiềm năng, giàu sinh khí và khát vọng phát triển. Trong hơn 90 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta lập kỳ tích chấn động địa cầu, đồng thời viết nên những trang sử đẹp nhất, chói lọi nhất của lịch sử Viêt Nam hiện đại. Với trí tuệ, bản lĩnh và tầm nhìn nhạy bén, Đảng lại biết khơi nguồn, nhân lên nội lực để vươn tới. Nếu không phải là một Đảng chân chính, nếu không biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng, nếu không trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc thì Đảng không thể lãnh đạo nhân dân đạt được những thành tựu vẻ vang như vậy. Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng là chính đảng cách mạng duy nhất được giai cấp, dân tộc trao cho sứ mệnh lịch sử vinh quang./.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.        V.Lênin: Toàn tập, tập 23, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.54.

2.        Đánh giá của Đại hội Mác quốc tế họp ở Pari năm 1995 nhân kỷ niệm 100 năm chủ nghĩa Mác - xem Tạp chí Cộng sản, số 9, 5/1996.

3.        A. Dinoviep: Người vĩ đại nhất của thế kỷ XX, Thông tin những vấn đề lý luận, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, số 9 (5-2004).

4.        Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, tr.289.

5.        Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, tr.30.

6.        Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.64.

7.        Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.104.

8.        Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.

9.        Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật. Hà Nội, 2011, tr.68.

10.    Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Hà Nội, 2013, tr.169.



[1] http://vi.wikipedia.org/wiki/Karl-Marx

[2] http://triethoc.edu.vn/vi/truong-phai-triet-hoc/chu-nghia-marx/page/2/

Tin mới hơn

Tin cũ hơn