Sau tất cả những biến cố thăng trầm của lich sử, ngày hôm nay cả dân tộc Việt Nam đang được sống trong độc lập, tự do, hạnh phúc với những chuyển biến tích cực và rất đáng tựu hào: đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, chính trị - xã hội về cơ bản ổn định, quốc phòng - an ninh được giữ vững và tăng cường... Có được thành tựu này, là nhờ vào sự nỗ lực, hi sinh, cống hiến không biết mệt mỏi của lớp lớp thế hệ cha anh, một trong số đó phải kể đến là công lao vĩ đại của cá nhân Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mặc dù đã mãi mãi đi xa, nhưng di sản vô giá mà Người để lại cho Tổ quốc, nhân dân ta cũng như toàn thế nhân loại không chỉ có những giá trị tư tưởng, đạo đức sáng ngời, mà sống động hơn trong thực tiễn là một thời đại mới rực rõ nhất trong chiều dài lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc Việt Nam - thời đại Hồ Chi Minh.
Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước nhưng chỉ đến khi có sự xuất hiện của Người, dân tộc ta mới thực sự bước sang một trang sử mới mà bất kỳ thời đại nào trước đó cũng chưa có được “Đó là thời đại HỒ CHÍ MINH, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử quang vinh của dân tộc” - với đặc trưng lớn nhất là: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người đã mang hàng trăm tên gọi khác nhau, ở đó Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là những tên gọi nổi bật hơn cả, gắn liền với những bước ngoặt cơ bản của của cách mạng Việt Nam thời kỳ hiện đại. Không chỉ với vai trò tìm đường, mở đường và dẫn đường cho dân tộc ta đi tới độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội, mà ngày nay tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục soi đường cho công cuộc đổi mới, hội nhập ở Việt Nam.
1. Nguyễn Tất Thành - Người tìm đường cho cách mạng Việt Nam
Thực dân Pháp bắt đầu nổ súng xâm lược Việt Nam vào năm 1858 và chính thức đặt ách thống trị lên đất nước ta vào năm 1884. Trong bối cảnh triều đình nhà Nguyễn tự đánh mất vai trò lãnh đạo của minh và phản bội lại quyền lợi của dân tộc, rất nhiều phong trào yêu nước chống Pháp theo các khuynh hướng khác nhau đã nổ ra ở khắp ba miền đất nước. Điển hình là các phong trào theo hệ tư tưởng phong kiến như phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi lãnh đạo và phong trào của nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo… Các phong trào đó đã gây được tiếng vang lớn, nhưng cuối cùng vẫn thất bại do sự lỗi thời của hệ tư tưởng phong kiến trước thời cuộc.
Các phong trào theo khuynh hướng dẫn chủ tư sản sau đó cũng diễn ra sôi nổi, tiêu biểu là phong trào Đông Du do ca Phan Bội Châu lãnh đạo và phong trào Duy Tân do cụ Phan Châu Trinh lãnh đạo đã ít nhiều đạt được những thành tựu nhất định, nhưng cũng lần lượt bị dập tắt trước sức mạnh của kẻ thù. Những thất bại này cho thấy sự bất lực của hệ tư tưởng dẫn chủ tư sản trong giải quyết những yêu cầu của lịch sử dân tộc.
Vượt lên trên tầm của thời đại và các bậc sĩ phu yêu nước đương thời, và xuất phát từ khát khao giải phóng dân tộc từ con tim, khối óc của một người dân mất nước, nô lệ làm than, Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước với quyết tâm cháy bỏng: “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những gì tôi hiểu”[1].
Ban đầu Nguyễn Tất Thành ra nước ngoài với ý nghĩ “xem nước Pháp và các nước khác làm như thế nào rồi trở về giúp đồng bảo ta”. Với trí tuệ thông minh, sự hiểu biết từ sớm, một chuỗi sự kiện chứng tỏ Hồ Chí Minh đi sang Phương Tây có chủ dịch rõ ràng, đây là quyết định bắt nguồn từ lòng yêu nước. thương dân sâu sắc, tinh thần ham học hỏi và tư duy chính trị độc lập, sáng tạo của Nguyễn Tất Thành Vì vậy, trong gần 10 năm tìm tôi (1911-1920), khảo nghiệm khắp Châu Âu, Châu Phi và Châu Mỹ, Người đã ra sức quan sát, lắng nghe, học hỏi phân tích và rút ra nhiều nhận thức mới mẻ cho bản thân và dân tộc. Người đã xác định đúng kẻ thù của dân tộc ta không phải là mọi người Pháp. mà chỉ là bọn thực dân, đế quốc Pháp. Người đã đãn hình thành ý thức đoàn kết quốc tế với việc nhận thức được tinh thần đấu tranh của những dân tộc cùng chung cánh ngô mất nước ở Châu Phi, Châu Mỹ. Trong quá trình đó, ý thức giải cấp của Người cũng nảy sinh một cách tự nhiên thông qua việc dòng cảm với người lao động bị bóc lột ở các nước chính quốc. Đó là những nhận thức mới nhưng rất quan trọng giúp đưa tới quyết định lựa chọn con đường cứu nước cho dân tộc.
Xuất phát từ khát khao giải phóng dân tộc từ con tim, khối óc của một người dân mất nước, nô lệ làm than. Hồ Chí Minh xác định được cái đích đi tới rất rõ ràng, đó là “tự do cho đồng bào”, “độc lập cho Tổ quốc”, là "đoàn kết với các dân tộc thuộc địa”. Những năm 1919-1920, Hồ Chí Minh còn lúng túng trước các cuộc bàn cãi sôi nổi, Người tâm sự: “Tôi biết rất ít về các vấn đề chính trị... Tôi chưa biết đảng là gì, công đoàn là gì, càng không rõ chủ nghĩa xã hội khác với chủ nghĩa cộng sản chỗ nào... Tôi biết rất ít về cách mạng Tháng Mười và về Lênin, về cảm tính tôi thấy mình có mối tình đoàn kết với cuộc cách mạng Nga và người lãnh đạo cuộc cách mạng ấy, nhưng tôi chưa hề đọc tác phẩm nào của Lênin”[2]. Đầu năm 1919, Người vào Đảng Xã hội Pháp với một lý do cũng rất đơn giản “Chỉ vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bệnh vực nước tôi, là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: TỰ DO, BÌNH ĐẲNG, BÁC ÁI”[3].
Trước sau như một, Hồ Chí Minh vẫn trên một trục tư duy muốn được giải phỏng các dân tộc thuộc địa phải được giải phóng. Vì vậy, khi nhận được trả lời “Quốc tế thứ ba đoàn kết với các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân áp bức” và đọc được Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, thì Người đã bỏ phiếu cho Đệ tam Quốc tế, tán thành Quốc tế thứ ba và hoàn toàn tin theo Lênin. Với sự nhạy bén chính trị Hồ Chí Minh từ chỗ tham gia vào Đảng xã hội Pháp đã đi tới quyết định chọn con đường cách mạng mà Lênin khai phá “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ, đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”[4], đó là giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam, được trang bị vốn văn hóa, vốn chính trị và vốn sống thực tiễn, tầm nhìn rộng mở, tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, suy nghĩ, trăn trở trong khoảng 10 năm, cuối cùng Hồ Chí Minh rút ra được kết luận bổ ích: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[5]. Rút ra được kết luận đó lúc bấy giờ không hoàn toàn đơn giản, đó là sự kết tinh của lòng yêu nước và tư chất khoa học, trí tuệ và bản lĩnh, tầm nhìn và cách nhìn, nhưng trên hết, trước hết là hoài bão cứu nước, cứu dân, xác định mục đích giúp đồng bảo thoát khỏi gông cùm nô lệ.
Hồ Chí Minh viết: “Lúc đầu chỉnh là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo quốc tế thứ ba”[6]. Đó là con đường dẫn Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm được con đường cứu nước đúng đắn, khoa học, cách mạng, vừa đáp ứng nhu cầu lịch sử dân tộc, hợp lòng dân, vừa phù hợp xu thế của thời đại mới được mở ra từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Như vậy, đến cuối năm 1920, sau khi trải qua bao gian lao thử thách trong quá trình tìm tòi, khảo nghiệm và học hỏi lâu dài, Nguyễn Tất Thành đã tìm được con đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc ta. Điều đó ngay từ đầu đã khẳng định vai trò quyết định của Nguyễn Tất Thành trong việc tìm đường giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội cho dân tộc Việt Nam - con đường cách mạng vô sản.
2. Nguyễn Ái Quốc - Người mở đường cho cách mạng Việt Nam
Vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Bản chất của chủ nghĩa đế quốc là xâm chiếm, vơ vét, khai thác thuộc địa, làm giàu “chính quốc” bằng mồ hôi, nước mắt và máu xương của các dân tộc thuộc địa. Thuộc địa dưới con mắt của “chính quốc”, vị vậy, chỉ là một vùng đất chết. Hồ Chí Minh đã sớm nhìn nhận vấn đề trung tâm của thế giới lúc bấy giờ, cũng là vấn đề lớn nhất của cách mạng thế giới cần tập trung giải quyết, đó là vấn đề thuộc địa. Tuy nhiên, dưới con mắt Phương Tây, ngay cả Đảng Cộng sản Pháp, người ta cho rằng: Đông Dương không muốn cách mạng và bằng lòng với chế độ bây giờ. “Bị đầu độc cả tinh thần lẫn thể xác, bị bịt mồm và bị giam hãm, người ta có thể tưởng rằng cái bầy người ấy cử mãi mãi bị dùng làm cái đồ để tế cái ông thần tư bản, rằng bầy người đó không sống nữa không suy nghĩ nữa và là vô dụng trong việc cải tạo xã hội”[7]. Bằng bộ máy tuyên truyền khổng lồ của giai cấp tư sản, người ta mặc nhiên cho rằng: “thuộc địa là một vùng xa xôi, trên là trời xanh, dưới là đất và cát với mấy cây dừa, vài người khác màu da, thế thôi”. Nếu quả thật thuộc địa đúng như vậy thì không thể làm cách mạng.
Bằng những con số biết nói, Nguyễn Ái Quốc đã vẽ lên một bức tranh thuộc địa sống động với tất cả bản chất xấu xa, độc ác, bỉ ổi, vô nhân đạo của chủ nghĩa thực dân và tinh thần cách mạng của nhân dân các thuộc địa. Phát biểu tại Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp, Người vạch rõ, “chủ nghĩa tư bản Pháp đã vào Đông Dương nửa thế kỷ nay, vì lợi ích của nó, nó đã dùng lưỡi lê chinh phục đất nước chúng tôi. Từ đó, chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm... Nhà tù nhiều hơn trường học, lúc nào cũng mở cửa và chật ních người... Chúng tôi không có quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội họp và lập hội cũng không có... Người ta đã làm chết hàng nghìn người dân An Nam và tàn sát hàng nghìn người khác để bảo vệ lợi ích không phải của chính họ”[8].
Sự “mở đường” đầu tiên, dùng cảm nhất là vạch tội ác của chủ nghĩa thực dân. Ở giữa trung tâm, sào huyệt của chủ nghĩa đế quốc, một người bản xứ duy nhất trong số đại biểu các thuộc địa có mặt trong Đại hội toàn quốc lần thủ XVIII Đảng xã hội Pháp bình tĩnh, dõng dạc, đĩnh đạc phản kháng những tội ác ghê tởm của chủ nghĩa thực dân trên quê hương. Người thẳng thắn buộc phái nghị viện “im đi” khi nói về một vấn đề trọng đại chủ nghĩa xã hội. Lần đầu tiên người ta nghe một người Việt Nam - người bản xứ - tham gia một đại hội đại biểu của chính đảng Pháp bàn về sự nghiệp cách mạng thế giới, trong vài phút nhắc đến hai lần cụm từ. “chủ nghĩa xã hội”. Sau khi khẳng định “bất cứ người bản xứ nào đề cập đến xã hội chủ nghĩa đều bị bắt và đôi khi bị giết mà không xét xử”, Nguyễn Ái Quốc đề nghị Đảng Xã hội Pháp “phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa”.
So với tất cả các lãnh tụ vô sản trong thế kỷ XX, Hồ Chí Minh là người viết nhiều nhất để tố cáo tội ác thực dân và bênh vực nhiều nhất các dân tộc thuộc địa. Người viết “Người ta thường nói “Chế độ thực dân là ăn cướp". Chúng tôi xin thêm là hiếp dâm và giết người"?[9] Giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng. Nguyễn Ái Quốc có công trạng lý luận hàng đầu là vạch trần những mối quan hệ mẫu quốc và thuộc địa Pháp quốc và Việt Nam.
Trong khi tố cáo tội ác thực dân, Hồ Chí Minh có cách tiếp cận riêng về cách mạng thuộc địa: “Cách mạng ngoài vấn đề tương lai của các thuộc địa còn có cả nguy cơ của các thuộc địa”[10], Người nhận thấy “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”[11]. Theo Người, “Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến”[12]. Trên con đường cách mạng vô sản, “bộ phận vụ tử” là đảng cộng sản. Nhưng lúc đó ở Đông Dương chưa có bất kỳ một đảng cộng sản nào. Vì thế, sau khi tìm được con đường cách mạng vô sản, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị những tiền đề về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
Quá trình truyền bá là quá trình làm cho phong trào công nhân dần phát triển từ tự phát lên “tự giác”, phong trào yêu nước chuyển hóa thành phong trào yêu nước “màu đỏ” - yêu nước theo khuynh hướng cách mạng vô sản. Điều kiện chin muồi đã dẫn đến sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam vào cuối năm 1929 và đầu năm 1930. Với tài năng, uy tín và vai trò của minh, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 03/02/1930. Từ đây, dân tộc ta được đấu tranh vì độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng - “nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”[13], đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, và đã giành được những thắng lợi vĩ đại trong thế kỷ XX.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi vĩ đại đầu tiên để lại dấu ấn của Nguyễn Ái Quốc trong vai trò người lãnh đạo và tổ chức. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, tình thế cách mạng xuất hiện, các Hội nghị Trung ương 6 (HNTU 6) (11/1939), HNTƯ 7 (11/1940) và đặc biệt là HNTƯ 8 (5/1941), với vai trò chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, Đảng kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Với trách nhiệm cá nhân của minh, Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra những quyết định kịp thời và sáng suốt nhằm tranh thủ mọi lực lượng quốc tế có thể tranh thủ, tạo hậu thuẫn cho cách mạng Việt Nam. Đồng thời, để chuẩn bị lực lượng cho cách mạng Người đã mở lớp huấn luyện cấp tốc và cử cán bộ về nước tổ chức các đoàn thể cứu quốc quyết định chọn Cao Bằng làm căn cứ địa cách mạng đưa ra chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh và được HNTU 8 nhất trí; ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, thành lập Khu giải phóng và cứ ra Ủy ban cách mạng; vv...Đó là những bước chuẩn bị thiết yếu mà Nguyễn Ái Quốc đã làm nhằm đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng khi thời cơ chín muồi.
Ngày 15-8-1945, Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng Minh, thời cơ cách mạng xuất hiện. Thực hiện chủ trương Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Đồng Minh vào Việt Nam của Đảng. Hồ Chí Minh triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân (họp từ ngày 16 đến 17-8-1945). Đại hội tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua Mười chính sách lớn của Việt Minh, bầu Ủy ban dân tộc giải phóng. Ngay sau Đại hội, Người gửi Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa tới đồng bào cả nước. “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến Toàn quốc dân đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”[14], Đáp lời kêu gọi của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhân dân ta triệu người như một đứng lên tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám thành công, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở ra thời đại mới cho dân tộc Việt Nam - thời đại Hồ Chí Minh - thời đại của độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là những mốc son đánh dấu vai trò mở đường của Nguyễn Ái Quốc trên con đường lịch sử tiến hóa hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam.
3. Hồ Chí Minh - Người dẫn đường cho cách mạng Việt Nam
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, chính quyền cách mạng được xây dựng từ trung ương xuống địa phương với mặt trận Việt Minh lấy cơ sở công nông làm cốt và được nhân dân tin yêu hết sức bảo vệ. Có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Hồ Chủ tịch, bằng uy tín và tài năng của mình, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát huy được tinh thần đoàn kết dân tộc. Tuy nhiên, ngay lập tức chúng ta gặp phải khó khăn to lớn hơn nhiều: miền Bắc 20 vạn quân Tưởng lấy cớ là giải giáp quân đội Nhật tiến vào nước ta, phía Nam được sự hậu thuẫn của Anh, thực dân Pháp âm mưu xâm lược trở lại nước ta, trong khi tinh hình đất nước nạn đói, nạn dốt...đang ra sức hoành hành. Về ngoại giao, chưa có nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước ta, kể cả Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, làm cho chúng ta cô lập với thế giới không thể tranh thủ được sự ủng hộ của quốc tế; Chính quyền non trẻ thiếu kiến thức và trình độ quản lý; Lực lượng phản động trong nước và quốc tế ráo riết chống phá cách mạng…
Trước những khó khăn này, có thể nói rằng. “Vận mệnh nước ta như ngàn cần treo sợi tóc”. Trước tình thế đó, với nguyên tắc “Di bất biến, ủng vạn biến”, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng đã bình tĩnh, sáng suốt phân tích tình hình, đề ra đường lối đúng đắn và những cách thức hành động khôn khéo, mềm dẻo, từng bước giải quyết giặc đói, thanh toán giặc dốt, nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân. Trong bối cảnh bị kẻ thù chống phá từ nhiều phía, Người đã lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, thành lập Chính phủ chính thức và ban hành Hiến pháp. Qua đó giúp chính quyền cách mạng nhanh chóng trở nên hợp pháp, hợp hiến, là cơ sở để các nước trên thế giới công nhận, góp phần giữ vững và củng cố chính quyền nhân dân non trẻ. Trên cương vị Chủ tịch, Người nêu khẩu hiệu “Hoa - Việt thân thiện”, “tự ý giải tán” Đảng, đề nghị Quốc hội và Chính phủ thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc với Tưởng về chính trị và kinh tế, buộc chúng thừa nhận chính quyền cách mạng tranh thủ thời gian hòa hoãn để tập trung chống Pháp xâm lược. Đặc biệt, với tài năng ngoại giao và tư duy chính trị nhạy bén Người trực tiếp ký Hiệp định Sơ bộ 06/3/1946 và Tạm ước Việt - Pháp 14/9/1946, đuổi nhanh quân Tưởng về nước, buộc Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa là một nước tự do, có chủ quyền, tạo thời gian hòa hoãn cần thiết để xây dựng và phát triển lực lượng chuẩn bị mọi mặt cho toàn quốc kháng chiến. Những quyết định lịch sử sáng suốt, vừa có tính nguyên tắc, vừa mềm dẻo và linh hoạt của Hồ Chí Minh giúp dân tộc vượt qua thời đoạn hiểm nghèo đã bước đầu phản ảnh tầm ảnh hưởng cũng như vai trò dẫn đường của Hồ Chí Minh đổi với cách mạng Việt Nam.
Trong hai cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh đã xác định đúng kẻ thù cơ bản, đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa ta và địch. Trong tầng tầng lớp lớp kẻ thù núp dưới danh nghĩa Đồng Minh kéo vào nước ta sau Cách mạng Tháng Tám Hồ Chí Minh đã nhanh chóng nhận ra kẻ thù cơ bản, chủ yếu của cách mạng Việt Nam Người đề nghị quốc dân đồng bào “Nhân dân Việt Nam hoan nghênh quân Đồng minh kéo vào Việt Nam để tước khí giới quân Nhật, nhưng cương quyết phản đối quân Pháp kéo vào Việt Nam, vì mục đích của họ chỉ là hãm dân tộc Việt Nam vào vòng nô lệ một lần nữa”[15]. Cũng vì thế Người đã sớm kêu gọi “Đồng bảo hãy sẵn sàng đợi lệnh Chính phủ để chiến đấu!”[16]. Những nhận định ngắn gọn đó của Người về bản chất hiếu chiến và dã tâm xâm lược của thực dân Pháp đã giúp Đảng ta xác định đúng kẻ thù, nhân dân khắc phục mọi biểu hiện mơ hồ, mất cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu
Về tương quan lực lượng giữa ta và địch, so sánh với thực dân Pháp, tuy súng, đạn, xe tăng, máy bay thì có cái ta không có, nhưng Hồ Chí Minh khẳng định: “ta mạnh hơn” vì “thế của ta mạnh hơn”[17]- Khi Mỹ can thiệp quân sự vào chiến tranh Việt Nam, đánh giá về Mỹ, Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra “5 điểm yếu của nó” là: kinh tế xây dựng trên chiến tranh, chính trị bị cô độc, chính sách xâm lược trái với chính nghĩa, v.v.. Người khẳng định: “Nếu Mỹ cứ theo chính sách chiến tranh thì sẽ đi đến sụp đổ!”[18]. Ta mạnh hơn và có được sự “chủ động” nên Người khẳng định quyết tâm “Mỹ đến ta cũng đánh; Pháp mạnh, ta cũng đánh, bù nhìn tổ chức thêm quân, ta cũng đánh”, “đánh cho đến khi nào hoàn toàn độc lập”[19]. Xác định đúng kẻ thù cơ bản và đánh giá chính xác tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch là điều kiện tiên quyết để Đảng ta hoạch định đường lối kháng chiến đúng đắn, xây dựng quyết tâm chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng.
Hồ Chí Minh và Đảng ta đã hoạch định đường lối kháng chiến đúng đắn, giúp cách mạng phát huy sức mạnh tổng hợp, duy trì và dẫn dắt hai cuộc kháng chiến phát triển tới thắng lợi hoàn toàn. Đường lối “kháng chiến, kiến quốc của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xuất đã dẫn đường cho cách mạng nước ta nhanh chóng xây dựng mọi tiềm lực của đất nước, giúp đẩy lùi “giặc đói”, chống “giặc dốt”, tiêu diệt “giặc ngoại xâm” trong chiến thắng Điện Biên Phủ, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng do Hồ Chí Minh khởi xướng sau đó cũng đóng vai trò quyết định, dẫn dắt cuộc kháng chiến chống Mỹ tới thắng lợi hoàn toàn. Thực hiện chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa giúp xây dựng được hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa vững chắc, đóng vai trò quyết định nhất đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến. Tiến hành chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã trực tiếp quyết định thắng lợi của sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Chủ trường thẳng từng bước với việc “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”[20] là phương hướng kết thúc chiến tranh trong quan điểm chỉ đạo của Người. Chính quan điểm này của Người đã dẫn đường cho cách mạng Việt Nam từng bước giành được những thắng lợi vững chắc nhất, làm cho quá trình đi tới thắng lợi hoàn toàn của dân tộc trong Mùa Xuân năm 1975 như một tất yếu lịch sử không thể đảo ngược
Thắng lợi vĩ đại của các cuộc kháng chiến, với việc hiện thực hóa mục tiêu độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, một lần nữa khẳng định vai trò dẫn đường cùng sức sống mãnh liệt và giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong công cuộc đổi mới, với vai trò nền tảng, tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là tài sản tinh thần vô cùng to lớn của Đảng và dân tộc ta, mà còn “mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”[21]. Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng. Nhà nước và nhân dân ta. Đối mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”[22]. Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước ta mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn là “phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”[23].
Thắng lợi vĩ đại của công cuộc đổi mới là thắng lợi của việc tiếp nối và vẫn dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh mới. Ngày nay, nước ta quả đó lên chủ nghĩa xã hội trong bởi cảnh quốc tế, khu vực có những biến đổi tu lớn và sâu sắc nhưng Đảng ta khẳng định “trong quá trình đổi mới phải chủ động không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiến định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”[24].
Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh không những là người tìm đường, mở đường, dẫn đường mà tư tưởng của Người còn mãi soi đường cho cách mạng Việt Nam trong cuộc hành trình tới độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
[1] Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh – Biên niên sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, t.1, tr.112.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, tập 15, tr.583.
[3] Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh – Biên niên sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, t.1, tr.61.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, tập 11, tr.562.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, tập 2, tr. 289.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, tập 12. Tr. 563.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, tập 1, tr.40.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, tập 1, tr. 34-35.
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, tập 2, tr. 115.
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, tập 1, tr. 295.
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, tập 1, tr. 40.
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, tập 1, tr. 40.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam, Van kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trí Quốc gia, H, 2011, tr.10.
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, tập 3, tr. 596.
[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, tập 4, tr. 10.
[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, tập 4, tr.10.
[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, tập 8, tr.199.
[18] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, tập 8, tr. 195.
[19] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, tập 8, tr. 193.
[20] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, tập 15, tr. 532.
[21] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, tr.88.
[22] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2016, tr.65.
[23] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2016, tr.66.
[24] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2016, tr.69.